Thursday, July 30, 2015

Tạp luận 12 cung


 
12 cung của Tử Vi được an theo chiều nghịch lần lượt là Mệnh Bào Phối Tử Tài Tật Di Nô Quan Điền Phúc Phụ mẫu.

Cung Mệnh được an trước, Mệnh và Thân đồng thời xuất hiện trên lá số nên không thể nói Thân do Mệnh sinh ra, Thân phụ thuộc vào Mệnh, Mệnh Thân là đồng đẳng theo cách an. từ Mệnh kéo theo 11 cung liên đới sau nó. Nhưng nếu nói Mệnh sinh ra 11 cung đó nghe cũng rất chối, vì không lẽ Mệnh sinh Phụ mẫu, Mệnh sinh Phúc đức.

Rõ ràng Phúc đức sinh Phụ mẫu, Phụ mẫu sinh Mệnh, nhưng Mệnh vẫn là ông chủ tối cao của lá số. Điều này tương tự như vòng Trường sinh, có xuất lộ sinh ra mới có Mệnh (Trường sinh), nhưng Mệnh không phải tự dưng sinh ra, không phải tự Mệnh là khởi nguyên của Mệnh, Mệnh phải do Phụ mẫu (Dưỡng) sinh, Phụ mẫu do Phúc đức hình thành, vậy phải chăng Phúc đức (Thai) là khời nguyên của Mệnh, như vậy khởi nguyên của Phúc đức là gì ? Lá số không nói rõ khởi nguyên của Phúc đức là gì mà tóm lược tất cả phúc duyên, căn nguyên sinh ra Mệnh là Phúc đức (Thai). Vậy nói Phúc là cội nguồn của Mệnh rất chính xác, nhưng Phúc không thể thay thế Mệnh vì sao ? Vì sao Mệnh vẫn là chủ nhân tối cao của lá số ? Vì Mệnh không xuất lộ (Trường sinh) thì không có cung Phúc đức. Phúc đức như cả một đội đua chuẩn bị về kinh tài về kỹ thuật nhưng nếu Alonso không về nhất thì không ai đề cập đến hậu phương của đội đó.

Do vậy cần phải nói rõ hơn về tên của 12 cung

Mệnh là Tôi
Bào của Tôi
Thê của Tôi
Tử của Tôi
Tài của Tôi
Tật của Tôi
Di của Tôi
Nô của Tôi
Quan của Tôi
Điền của Tôi
Phúc của Tôi
Phụ mẫu của Tôi

Khi Tôi không còn thì của Tôi cũng không thể tồn tại. Như vậy Bào của Tôi cũng phải diệt ??? Đúng vậy, Bào của Tôi cũng không còn. Nhưng, anh em tôi vẫn còn sống trên đời ?? Chính xác. Và không hề mâu thuẫn vì đó là thực tế. Như vậy Bào của Tôi không thể là anh em tôi.

Như vậy Bào của tôi (hay nói cách khác là cung Bào trong lá số của tôi) không thể là một hình ảnh độc lập của anh em tôi đứng trên lá số của tôi, cung Bào đó luôn phụ thuộc sự tồn tại của Mệnh nên cung Bào đó phải là hình ảnh, thực trạng của anh em tôi khi xét tương quan với Tôi, nói cách khác phải là Bào của Tôi, không thể thiếu chữ của Tôi.
Tương tự như vậy Phụ mẫu của Tôi sẽ phải khác Phụ mẫu của anh tôi vì Tôi khác Anh tôi. Có nghĩa là tuy cùng cha mẹ nhưng hai cung Phụ mẫu hoàn toàn khác nhau. Hình ảnh cụ thể của cha mẹ ngoài đời chỉ có Một (Ông A, bà B nào đó) nhưng trong các lá số khác nhau của hai anh em ruột là khác nhau. Điều này nghe có vẻ mâu thuẫn nhưng đó mới là chính xác, Phụ mẫu của Tôi phải khác Phụ mẫu của Anh em tôi, Phúc đức của Tôi phải khác Phúc đức của anh em Tôi, dù tôi và các anh em là cùng cha cùng mẹ. Điều này tôi chỉ đề cập đến đây còn các bạn tự nghĩ thêm.
 
12 cung tạo thành 4 Tam hợp : Mệnh Tài Quan, Phúc Di Phối, Điền Tật Bào, Phụ Tử Nô.
Như vậy quan hệ giữa các cung trong tam hợp này liệu có phải quan hệ phụ thuộc, hay sinh thành giữa các cung đó với nhau không. Giả sử là có.

Vậy thì tại sao hào con hào của, con cái là tiêu chí đánh giá Phúc đức của dòng họ, của gia đình, lại không hợp chiếu với cung Phúc, con cái là sản phẩm của mình và vợ/ chồng mình, tại sao cung Tử tức không chiếu cung Mệnh hay cung Phối ??? Hay tam hợp Điền-Tật-Bào quan hệ tương thuộc và sinh thành cũng rất khiên cưỡng.

Như vậy quan hệ giữa 3 cung trong các tam hợp không phải lệ thuộc hay sinh thành.

3 cung trong một tam hợp không thể xét độc lập, đều phải xét trong tương quan với Mệnh, và 3 cung là đồng đẳng trên một tiêu chí nào đó đối với Mệnh.

Ví dụ : hai tam hợp Điền Tật Bào, Phụ Tử Nô.

Điền-Tật-Bào là các yếu tố ảnh hưởng mạnh đến tinh thần của ta qua từng thời kỳ. Lúc nhỏ có anh em như thể tay chân (Bào), trung niên sức khoẻ là vốn quý, tai nạn là hệ trọng (Tật) khi lớn lên anh em kiến giả nhất phận, về già vui thú ruộng vườn, nhà cửa (Điền trạch) anh em chưa chắc gần nhau, sức khoẻ suy kém theo thời gian là đương nhiên.

Phụ-Tử-Nô là tài sản của Mệnh về người, trẻ cậy cha (Phụ), trung niên có tâm phúc (), già cậy con (Tử). Tiền bạc không thể mua được cha mẹ, không thể mua được con cái, mua được bạn bè nhưng không thể mua được tâm phúc. Ba cung của tam hợp này thể hiện tương tác qua lại Nhân Quả mạnh mẽ, mà mang nặng các giá trị đạo đức xã hội như Nghĩa, Hiếu, Trung, nên được xếp đồng đẳng trong tương quan với Mệnh.

Khi kết hợp hai tam hợp trên thấy rằng, cả hai tam hợp chỉ lúc nhỏ có Bào và Phụ- đồng thời Bào và Phụ giáp Mệnh (thuở nhỏ trên là cha mẹ, xung quanh là anh em, tiền tài danh vọng với bản thân lúc này không quan trọng bằng cha mẹ và anh em). Lúc trung niên có Tật và Nô - đồng thời Tật và Nô giáp cung Thiên Di (môi trường xã hội, quan hệ xã hội, địa vị xã hội). Về già hai cung Tử và Điền xung chiếu, cuộc sống về già vui ruộng vườn nhìn con cháu trưởng thành, nên cung Điền cho biết rõ nét cuộc sống về già, đồng thời với Phúc (thai), Phụ mẫu (Dưỡng) Mệnh (Trường sinh) thì Điền là nơi Tuyệt khí. Theo quan điểm truyền thống Điền còn là ngôi mộ, ngôi nhà của người chết, khi hội Phúc Duyên tại Phúc sẽ qua Dưỡng lại đầu thai thành Mệnh mới. Một vòng Trường sinh mới lại bắt đầu. Chính vì sự xuyên phá không gian này mà vòng Mệnh mới đi nghịch cho nên thuyết vòng Trường sinh không thể đi nghịch với Âm nam, Dương nữ hoàn toàn sụp đổ.
 
Hỏa (-)PHỤ-MẪU / 116Tị
NHẬT <+Hỏa-mđ>
Thiên-Việt
Phi-Liêm
Hồng-Loan
Long-Đức
Tuyệt
Hỏa (+)PHÚC-ĐỨC / 106Ngọ
PHÁ <-Thủy-mđ>
Tả-Phù
Hóa-Khoa
Thiên-Phúc
Tấu-Thơ
Thai-Phụ
Bạch-Hổ
Mộ
Thổ (-)ĐIỀN-TRẠCH / 96Mùi
CƠ <-Thổ-đđ>
Quốc-Ấn
Tướng-Quân
Tam-Thai
Bát-Tọa
Phúc-Đức
Thiên-Đức
Quả-Tú
Tử
Kim (+)QUAN-LỘC / 86Thân
TỬ-VI <+Thổ-mđ>
PHỦ <-Thổ-mđ>
Hữu-Bật
Hóa-Quyền
Tiểu-Hao
Thiên-Khốc
Đẩu-Quân
Điếu-Khách
Thiên-Mã
Bệnh
Thổ (+)MỆNH (Thân) / 6Thìn
VŨ <-Kim-mđ>
Văn-Khúc
Hóa-Kỵ
Đường-Phù
Hỉ-Thần
Thiên-Hư
Thiên-Quí
Tuế-Phá
Thiên-La
Thai
DậuThânMùiNgọ
Tuất
Tỵ
HợiThìn
SửuDầnMão
Kim (-)NÔ-BỘC / 76Dậu
NGUYỆT <-Thủy-mđ>
Thanh-Long
Thiên-Thương
Trực-Phù
Địa-Giải
Thiên-Trù
LN Van-Tinh:
Suy
Mộc (-)HUYNH-ĐỆ / 16Mão
ĐỒNG <+Thủy-đđ>
Thiên-Khôi
Bệnh-Phù
Linh-Tinh
Tử-Phù
Thiên-Riêu
Thiên-Y
Nguyệt-Đức
Đào-Hoa
TRIỆT
Dưỡng
Thổ (+)THIÊN-DI / 66Tuất
THAM <-Thủy-vđ>
Văn-Xương
Thiên-Quan
Lực-Sĩ
Đà-La
Ân-Quang
Thái-Tuế
Thiên-Giải
Hoa-Cái
Địa-Võng
Đế-Vượng
Mộc (+)PHU-THÊ / 26Dần
SÁT <+Kim-mđ>
Đại-Hao
Phong-Cáo
Long-Trì
Quan-Phù
Thiên-Tài
Thiên-Thọ
TRIỆT
Trường-Sinh
Thổ (-)TỬ-TỨC / 36Sửu
LƯƠNG <-Mộc-đđ>
Hóa-Lộc
Phục-Binh
Hỏa-Tinh
Thiếu-Âm
Phá-Toái
TUẦN
Mộc-Dục
Thủy (+)TÀI-BẠCH / 46
LIÊM <-Hỏa-vđ>
TƯỚNG <+Thủy-vđ>
Quan-Phủ
Kình-Dương
Phượng-Các
Giải-Thần
Tang-Môn
TUẦN
Quan-Đới
Thủy (-)TẬT-ÁCH / 56Hợi
CỰ <-Thủy-đđ>
Lộc-Tồn
Bác-Sỉ
Địa-Kiếp
Địa-Không
Thiên-Sứ
Thiên-Hỉ
Thiên-Không
Thiếu-Dương
Thiên-Hình
Cô-Thần
Kiếp-Sát
Lưu-Hà
Lâm-Quan


Tôi xin lấy một ví dụ :

Lá số này đã được xem và được đoán định là Xương Khúc gặp Hóa kỵ nên nôm na là HỌC HÀNH KHÔNG THUẬN LỢI. Nay tôi sẽ phân tích lại thêm cho phong phú.

Trước hết cũng xin phép các bạn là : Trong tìm hiểu lý thuyết căn bản, tôi tôn trọng logic. Nhưng trong giải đoán của tôi hoàn toàn áp đặt quy chụp một cách chủ quan khiên cưỡng thậm chí cực đoan độc đoán và vô lý nên xin được miễn tranh luận về giải đoán.

Mệnh Thân đồng cung tại Thìn có Vũ khúc, Văn khúc và Hóa kỵ hội Văn xương từ Thiên Di. Cách cục của Mệnh là Tử Phủ Vũ Tướng. Hội cát tinh Ân quang, Thiên quý. Cung Mệnh có Tang Mã Khốc Hư cho thấy có khả năng người này là kẻ tư duy sâu sắc nhưng báo hiệu một cuộc đời không thuận về tình cảm.

Thiên di có Văn xương hội Tả phụ, Hóa khoa, Thai phụ, Phong cáo. nói lên môi trường xã hội mà người này chọn lựa và số phận chọn lựa người này là môi trường học vấn.

Cung Tài bạch và Quan lộc đều có những sao thể hiện địa vị quyền lực, sự thành đạt và sự bất mãn. Không thấy có văn tinh hội chiếu nhiều.

Chuyển qua cung Phụ mẫu có cách Nhật Nguyệt miếu, đắc Thiên việt, tam hợp của Phụ mẫu khá sáng sủa và thuần cách nhưng gặp Tuyệt và hội nhiều sát tinh từ cung Tật chiếu lên nên cha mẹ nhất là cha về quyền lực là con số không, có học vấn và tư cách xã hội trọng danh dự, đạo đức nhưng cuộc đời không được đắc ý về công danh.

Âm Dương của một lá số thể hiện hai dòng âm dương của cơ thể và vận khí vĩ mô của cuộc đời, lá số được Âm Dương sáng nên có thể là người có đầu óc sáng láng.

Cung Bào có Thiên khôi, Đào hoa gặp Triệt. Nói chung Mệnh giáp Khôi giáp Việt, Thiên khôi gặp Triệt nhưng khi hành vận Thiên khôi cũng thu được kết quả tốt về học tập, nhưng khó đỗ đầu ở những đẳng cấp nhất định.

Theo tôi lá số có cung Phúc khá tốt nhưng không thuần cách, cung Phúc có các cách : Phá quân Hóa khoa, Phúc mộ, Phúc đức Tả phụ, Phúc Thai Cáo. Phúc Thiên phúc. Theo duy tâm là người được hưởng phúc học hành từ âm phần của dòng họ, theo Nhân Quả là kẻ được xuất phát khi hội đủ phúc duyên, phúc duyên học tập nên không thể nói người này học kém. Nôm na là có Nghiệp HỌC.

Theo duy vật, người này được sinh ra từ một dòng họ có truyền thống học hành, có gen học tập, nhiều người thành công trong học vấn, cha mẹ anh chị em đều là những người có học vấn nên được giáo dục và có tố chất nên học hành thuận lợi.

Nhược điểm của cung Phúc này là Phá quân tuy đắc Hóa khoa nhưng vẫn chủ sự thất thường, thăng giáng. Nói theo duy tâm, sau này tuy có địa vị, quyền lực nhưng luôn kéo theo sự thăng giáng bất ngờ là nguyên nhân chính biến người này thành bất mãn trong cuộc đời. Nhưng Phúc Tả phụ là có mả cứu bần nên trong vận xấu cũng không đến mức lụn bại.

Cung Phu thê Thất sát gặp Triệt đắc Long trì, gặp Tài Thọ v.v... hợp nhiều cát tinh, văn tinh nên lấy được người chồng thành đạt nhưng không được đắc ý về tình cảm. Chồng con là vấn nạn của lá số này, cung Nô bộc cũng khá tốt nên sự bất đắc ý này chủ yếu do tính cách và sự lựa chọn của bản thân.

Cung Tật có những cách cục khá đặc biệt, Cự môn đắc Lộc tồn, Tam không, Thiên hình, Kiếp sát, Lưu hà, Cô thần. Mệnh Thân Hóa kỵ Thiên la, Di Đà la Thai tuế, Điền trạch Tam thai Bát tọa nên đề phòng họa ngồi tù tiềm ẩn. Tuy Mệnh Quang Quý, Phúc Tả phụ, Hóa khoa nhưng chỉ làm giảm nhẹ về thời gian và hậu quả, còn ngồi tù là không tránh khỏi.

Cung Điền cho thấy cuộc sống về già gần như tu hành, trong hối hận và sự cô độc.
 
 
Mệnh và cung an Mệnh

- Mệnh có Ngũ hành nên mới gọi là Mệnh Sa trung thổ, mệnh Hải trung kim v.v... Nhưng còn có cung Mệnh, tại sao cục cũng có Ngũ hành, lại không có cung Cục, trong khi mệnh và cục có tương đương để xét sinh khắc.
- Mệnh có ngũ hành mệnh, cung Mệnh có Ngũ hành cung Mệnh, ngũ hành cung mệnh lại không phải ngũ hành của Mệnh, vậy Mệnh không phải là cung Mệnh.

- Nếu Mệnh là cung Mệnh, cung Mệnh có ngũ hành cung Mệnh lại chứa các sao trong cung mệnh, toàn bộ cung Mệnh nếu là Mệnh lại phải mang ngũ hành Mệnh. Như vậy ngũ hành sao, ngũ hành cung lại nằm trong một ngũ hành Mệnh kể cả hai cung Mệnh cùng vị trí và giống nhau hoàn toàn trừ vòng Trường sinh. Thật khó đạt lý và quá phức tạp không căn cứ vững chắc. Như vậy Mệnh không phải cung Mệnh.

- Nếu ngũ hành mệnh được xác định từ năm sinh thì rõ ràng mệnh cũng phải được xác định từ năm sinh, trong khi lại tồn tại cung an Mệnh, và cặp mệnh thân. Như trên đã đề cập Mệnh Cục là cặp tương đương. Có cung an mệnh mà không có cung an Cục như vậy mệnh theo năm sinh thực ra phải thay bằng "Tuổi" hoặc đơn giản là năm sinh.

- Cung mệnh là cố định, vận trình thay đổi. Một người qua đời tại thời điểm nào đồng nghĩa với mệnh tuyệt tại thời điểm đó. Như vậy rõ ràng có sự tác động của đại vận đến mệnh. Nếu xét đơn lẻ cung Mệnh thì trong bất cứ vận nào cung mệnh cũng không thay đổi cho một lá số. Khi sinh ra đã vậy thì không lẽ cũng như vậy tự diệt. Tất nhiên không thể bỏ qua lưu hành đại vận tương tác đến. Như vậy mệnh có tương tác với vận.

- Giả sử có mệnh, khi một người được sinh ra dù mới sinh cũng đã gọi là có mệnh, dù sống vài giờ rồi qua đời thì cũng gọi là tuyệt mệnh, như vậy phải chấp nhận rằng sinh ra là có mệnh. Chuyến tàu số phận đưa mệnh đến thả ở một nhà ga, thời điểm mệnh xuống tàu chính là thời điểm một người được sinh ra. Mệnh đó phải chờ đến đủ số cục mới lưu hành vào đại vận tại cung mệnh ( với trường hợp khởi đại vận tại cung mệnh), trước khi đủ tuổi đến số cục đại vận chưa hình thành mệnh vẫn phải ngồi đợi ngoài cung Mệnh, không được bước vào cung an mệnh. Như vậy rõ ràng cung an mệnh không có một chút dính líu đến mệnh. Vì nếu cung an mệnh là nơi chứa mệnh đỡ mệnh khi mệnh được sinh ra thì không lẽ gì mệnh lại phải chờ đủ số cục mới nhập vào chính nơi nó được đặt vào lúc sinh ra. Trong thực tế mệnh vẫn phải ngồi ở sân ga để đợi đủ số cục mới được phép bước vào lưu hành đại vận. Như vậy Mệnh không phải cung an Mệnh.

Như vậy, mệnh không phải cung an Mệnh, mệnh không phải mệnh theo Lục thập Hoa giáp thì mệnh là gì với thân tạo thành cặp mệnh thân tương đương, cũng như cặp mệnh cục tương đương. Trong khi Thân có cung an Thân. Nếu mệnh không phải cung an Mệnh đương nhiên Thân không phải cung an Thân. Như vậy mệnh là mệnh, thân là thân, mệnh thân là hai yếu tố độc lập và được gọi đơn giản là mệnh thân như hai sao thì lấy gì trên lá số để xác định hai từ mệnh thân này. Và hai cung Mệnh, cung Thân dùng để làm gì khi không phải là mệnh thân.


Đến đây, mệnh lại là cung an mệnh, thân là cung an thân. Như vậy chắc chắn trong quá trình dùng từ mệnh (có thể gọi là mệnh, đề là mệnh nhưng lại không phải là mệnh). Mệnh phải tìm trên lá số là mệnh mà khi qua đời thì gọi là tuyệt mệnh chứ không phải mệnh để dùng gọi là mệnh Kim, Mộc, Thủy, Hỏa hay Thổ theo Lục thập Hoa giáp. Hoặc có tiên đề nào đó không phù hợp đã được sử dụng bên trên .
thất sát is offline  
 

No comments:

Post a Comment